Nhân lực – Trithucdoanhnhan.com https://trithucdoanhnhan.com Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sat, 27 Sep 2025 22:39:48 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/trithucdoanhnhan.com/2025/08/trithucdoanhnhan.svg Nhân lực – Trithucdoanhnhan.com https://trithucdoanhnhan.com 32 32 Hải Phòng: Nâng cao vai trò trạm y tế tuyến đầu trong chăm sóc sức khỏe người dân https://trithucdoanhnhan.com/hai-phong-nang-cao-vai-tro-tram-y-te-tuyen-dau-trong-cham-soc-suc-khoe-nguoi-dan/ Sat, 27 Sep 2025 22:39:45 +0000 https://trithucdoanhnhan.com/hai-phong-nang-cao-vai-tro-tram-y-te-tuyen-dau-trong-cham-soc-suc-khoe-nguoi-dan/

Hệ thống trạm y tế xã, phường tại Hải Phòng sau sáp nhập đang tiếp tục khẳng định vai trò tuyến đầu trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu, y tế dự phòng và phòng chống dịch. Sau một tháng vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp, hệ thống trạm y tế xã, phường tại Hải Phòng vẫn duy trì hoạt động thông suốt, bảo đảm chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân không bị gián đoạn.

Tủ thuốc đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh thông thường, sơ cứu ban đầu và phòng bệnh tại cộng đồng ở Trạm Y tế Kim Thành số 1.
Tủ thuốc đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh thông thường, sơ cứu ban đầu và phòng bệnh tại cộng đồng ở Trạm Y tế Kim Thành số 1.

Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả bền vững, các đơn vị y tế cơ sở mong muốn sớm có hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn về bài toán nhân lực, cơ chế và tổ chức để phù hợp với bối cảnh mới. Đội ngũ y bác sĩ tại các trạm nêu cao tinh thần trách nhiệm, đảm đương đồng thời nhiều nhiệm vụ chuyên môn, từ khám chữa bệnh thông thường, tiêm chủng, quản lý bệnh không lây, truyền thông giáo dục sức khỏe, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi.

Tại xã Kim Thành, sau sáp nhập có 31 thôn với quy mô dân số gần 43.000 người, hiện duy trì 4 trạm y tế. Trạm Y tế Kim Thành số 1 hiện có 9 cán bộ, trong đó có 1 bác sĩ. Trạm trưởng Trạm Y tế Kim Thành số 1 Nguyễn Thị Nga cho biết, trong tháng qua, số lượng bệnh nhân đến trạm tương đương với những thời điểm trước. Trạm đã khám chữa bệnh cho 637 lượt bệnh nhân, trong đó có 213 lượt khám theo bảo hiểm y tế và 22 lượt khám cấp cứu, tiêm vaccine viêm não Nhật Bản B cho 25 trẻ, tiêm chủng mở rộng định kỳ cho 72 trẻ và khám thai cho 45 phụ nữ mang thai.

Còn tại phường Lê Thanh Nghị, sau sáp nhập, hiện có 4 trạm y tế hoạt động. Trạm Y tế Lê Thanh Nghị 2 có 6 cán bộ. Trạm trưởng Trạm Y tế Lê Thanh Nghị 2 Nguyễn Hữu Tường cho biết, trong tháng 7/2025, trạm vẫn đảm bảo khám chữa bệnh, tiêm chủng mở rộng, phòng chống dịch bệnh, nhất là sốt xuất huyết. Đặc biệt, trạm đã phối hợp với Trung tâm Y tế Hải Dương và một doanh nghiệp tặng quà, xét nghiệm miễn phí 7 chỉ số sinh hóa cho các đối tượng người có công, thân nhân liệt sĩ với tổng trị giá quà tặng và dịch vụ trên 300 triệu đồng.

Tuyến y tế cơ sở có vai trò then chốt trong chăm sóc sức khỏe toàn dân. Các bệnh lý thông thường, bệnh mạn tính không lây như tăng huyết áp, đái tháo đường… nếu được theo dõi và quản lý tốt tại cơ sở sẽ giúp hạn chế các biến chứng nặng, giảm chi phí cho người bệnh và giảm tải cho hệ thống y tế.

Nhiều cán bộ y tế cơ sở cho rằng, mô hình phù hợp trong giai đoạn hiện nay là ‘Một trạm chính – Nhiều điểm trạm’. Theo đó, mỗi xã, phường sẽ có 1 trạm trung tâm có đủ trưởng trạm, phó trưởng trạm, bác sĩ, điều dưỡng, hộ sinh, dược sĩ và các chức danh khác. Hiện nay, các trạm y tế thuộc Trung tâm Y tế Ninh Giang đang dàn trải, thiếu nhân lực, trang thiết bị phân tán, hiệu quả hoạt động chưa đồng đều.

Ưu điểm của mô hình ‘Một trạm chính – nhiều điểm trạm’ sẽ phù hợp với định hướng tinh gọn bộ máy y tế cơ sở theo chính quyền hai cấp; linh hoạt trong điều hành, quản lý khi địa bàn xã mở rộng. Đặc biệt, mô hình này giúp tối ưu hóa nhân lực, tập trung trang thiết bị tại trạm trung tâm; giảm đầu mối hành chính nhưng vẫn đảm bảo người dân được tiếp cận y tế.

Để các trạm y tế hoạt động hiệu quả theo mô hình tổ chức mới, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân, cần ‘tiếp sức’ cho các trạm về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực. Để thực hiện được điều này, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế cho tuyến y tế cơ sở theo Quyết định số 1300/QĐ-BYT ngày 9/3/2023 của Bộ Y tế về Đề án đầu tư xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở giai đoạn 2023-2030, Thông tư số 28/2020/TT-BYT ngày 31/12/2020 về danh mục và định mức trang thiết bị y tế thiết yếu cho tuyến y tế cơ sở.

]]>
Chuyển đổi số trong khu vực công: Thách thức và cơ hội cho Việt Nam https://trithucdoanhnhan.com/chuyen-doi-so-trong-khu-vuc-cong-thach-thuc-va-co-hoi-cho-viet-nam/ Wed, 27 Aug 2025 08:37:24 +0000 https://trithucdoanhnhan.com/chuyen-doi-so-trong-khu-vuc-cong-thach-thuc-va-co-hoi-cho-viet-nam/

Chuyển đổi số trong khu vực công tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng và nhân lực. Tuy nhiên, quá trình này cũng mở ra cơ hội lớn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng dịch vụ công. Để xây dựng một hệ thống chính phủ số hiệu quả, lấy người dân làm trung tâm, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong quản lý nhà nước, Việt Nam cần tập trung vào việc xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc.

Thách thức chuyển đổi số khu vực công

Tại Diễn đàn ‘Chuyển đổi số khu vực công – Tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội’ diễn ra ngày 17/7, ông Phạm Mạnh Hùng – Phó Tổng Giám đốc VOV cho biết, khu vực công được xác định là người dẫn đường và là tiền đề vững chắc cho sự phát triển kinh tế – xã hội thông qua quá trình số hóa và thích ứng nhanh chóng. Chuyển đổi số trong khu vực công là một đột phá hàng đầu và là động lực chính để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, thúc đẩy kinh tế – xã hội và ngăn chặn nguy cơ tụt hậu.

Tuy nhiên, việc triển khai quá trình chuyển đổi số trong khu vực công cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức về hạ tầng số. Đặc biệt là ở cấp cơ sở, dữ liệu chưa đồng bộ, thiếu kết nối, thiếu chia sẻ giữa các cơ quan, bộ, ngành, địa phương, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, tâm lý e dè đổi mới ở một số nơi. Cùng với đó, hệ thống thể chế và chính sách pháp luật về chuyển đổi số còn chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ.

Ông Nguyễn Hữu Thái Hòa – Phó Viện trưởng Viện Trí Việt IVM/VUSTA, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, thách thức lớn nhất trong chuyển đổi số khu vực công là các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng công nghệ và nguồn lực. Nhiều cơ quan nhà nước vẫn sử dụng các hệ thống công nghệ cũ kỹ, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc tích hợp các giải pháp số hóa mới.

Xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc

Ông Chử Đức Hoàng – Chánh văn phòng Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) kiến nghị, để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số quốc gia, Việt Nam đang tập trung vào việc xây dựng một thể chế kiến tạo vững chắc, tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển. Trong đó, việc hình thành các cơ chế thử nghiệm đóng vai trò then chốt, cho phép kiểm tra và hoàn thiện các giải pháp số hóa trước khi triển khai rộng rãi.

Để cụ thể hóa những định hướng này, việc thể chế hóa các quy định pháp luật là vô cùng cần thiết. Một trong những yếu tố cốt lõi để hiện thực hóa chuyển đổi số là việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu chuyên ngành đồng bộ, liên thông.

Chuyển đổi số thành công đòi hỏi sự đầu tư mạnh mẽ vào con người và một niềm tin vững chắc vào đội ngũ. Nếu thiếu đi niềm tin, mọi nỗ lực sẽ trở nên vô nghĩa. Điều này đặc biệt đúng khi xây dựng đội ngũ công nghệ thông tin (IT) và chuyên gia – những nhân tố cốt lõi cho sự phát triển.

Ông Nguyễn Hữu Thái Hoà đề xuất, cần tăng ngân sách cho việc nâng cấp cơ sở hạ tầng số, như trung tâm dữ liệu quốc gia và mạng 5G, đặc biệt ở các địa phương. Đồng thời xây dựng các chương trình đào tạo kỹ năng số cho cán bộ, công chức, hợp tác với các trường đại học và doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực công nghệ.

Việt Nam cần khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ tham gia phát triển giải pháp số cho khu vực công, như ứng dụng AI, blockchain, hoặc IoT. Ngoài ra, cần triển khai các chiến dịch truyền thông để khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo các nền tảng dễ sử dụng và hỗ trợ đa ngôn ngữ.

]]>
Nông nghiệp thiếu nhân lực chất lượng cao https://trithucdoanhnhan.com/nong-nghiep-thieu-nhan-luc-chat-luong-cao/ Wed, 06 Aug 2025 22:49:02 +0000 https://trithucdoanhnhan.com/nong-nghiep-thieu-nhan-luc-chat-luong-cao/

Ngành nông nghiệp đang đứng trước một thách thức lớn trong việc thu hút và đào tạo nhân lực chất lượng cao. Dữ liệu từ Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho thấy tỷ lệ lao động trong ngành này sở hữu bằng cấp chỉ tăng nhẹ từ 4,1% vào năm 2015 lên 6,1% vào năm 2025. Sự gia tăng này, mặc dù tích cực, nhưng vẫn phản ánh một tốc độ phát triển rất chậm trong việc nâng cao trình độ chuyên môn của lao động ngành nông nghiệp.

Song song với thách thức về nâng cao trình độ chuyên môn, giáo dục đào tạo ngành nông nghiệp cũng đang trải qua một giai đoạn suy giảm đáng kể. Cụ thể, số lượng người theo học ngành này đã giảm 31,1% trong vòng một thập kỷ qua. Xu hướng này không chỉ cho thấy sự mất mát trong quy mô đào tạo mà còn đặt ra những thách thức nghiêm trọng về việc đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành nông nghiệp trong tương lai.

Thách thức này trở nên cấp thiết hơn khi nhu cầu về thực phẩm và sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng cao. Trong bối cảnh đó, việc tìm ra giải pháp để tăng cường thu hút và đào tạo nhân lực chất lượng cao cho ngành nông nghiệp đang trở thành một yêu cầu cấp thiết. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ giúp ngành nông nghiệp đáp ứng được nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành, từ đó nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện sống cho người lao động trong ngành này.

Để giải quyết vấn đề này, cần có những chính sách và chiến lược toàn diện nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và thu hút nhân lực cho ngành nông nghiệp. Điều này có thể bao gồm việc cải thiện chương trình giáo dục và đào tạo, tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, cũng như xây dựng các chính sách hỗ trợ và khuyến khích để thu hút sinh viên vào ngành. Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của ngành nông nghiệp trong việc đảm bảo an ninh lương thực và phát triển bền vững cũng đóng vai trò quan trọng.

Trước những thách thức và cơ hội đang hiện diện, ngành nông nghiệp cần chủ động trong việc đổi mới và cải thiện, không chỉ trong sản xuất mà còn trong đào tạo và thu hút nhân lực. Sự thay đổi này không chỉ giúp đảm bảo nguồn cung thực phẩm ổn định và chất lượng cao mà còn đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Một số giải pháp có thể được xem xét bao gồm hợp tác với các tổ chức giáo dục quốc tế để chuyển giao công nghệ và phương pháp đào tạo tiên tiến, xây dựng các chương trình đào tạo đa dạng và linh hoạt đáp ứng nhu cầu thực tiễn của ngành, và cuối cùng là tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và điều kiện làm việc cho người lao động trong ngành nông nghiệp.

Nhìn chung, trong bối cảnh hiện nay, ngành nông nghiệp cần những bước đi đột phá trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng nhân lực. Bằng cách kết hợp các giải pháp đa dạng và tận dụng các cơ hội hợp tác, ngành nông nghiệp có thể hướng tới một tương lai phát triển bền vững và đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng như các cơ quan chức năng liên quan cần có những chính sách hỗ trợ cũng như những chiến lượt trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu của thị trường lao đông và cũng như nâng cao cả về chất và lượng cho các sản phẩm nông nghiệp.

]]>
Chính sách mới thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ Việt Nam phát triển https://trithucdoanhnhan.com/chinh-sach-moi-thuc-day-cong-nghiep-ho-tro-viet-nam-phat-trien/ Sat, 26 Jul 2025 04:22:48 +0000 https://trithucdoanhnhan.com/chinh-sach-moi-thuc-day-cong-nghiep-ho-tro-viet-nam-phat-trien/

Chính phủ đã ban hành Nghị định 205/2025/NĐ-CP, nhằm mở rộng các ưu đãi về vốn, công nghệ, nhân lực và thị trường để thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Nghị định này được kỳ vọng sẽ giúp tháo gỡ những khó khăn về vốn, công nghệ, pháp lý và thị trường cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực then chốt này.

Theo chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2030, công nghiệp hỗ trợ sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong công nghiệp chế biến, chế tạo, với mục tiêu tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45–50% vào năm 2030.
Theo chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2030, công nghiệp hỗ trợ sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong công nghiệp chế biến, chế tạo, với mục tiêu tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45–50% vào năm 2030.

Nghị định 205/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Chính sách mới này có hiệu lực từ ngày 1/9 tới đây. Các chuyên gia kinh tế cho rằng chính sách mới này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

Một trong những điểm nổi bật của Nghị định 205/2025/NĐ-CP là việc bổ sung quy định hỗ trợ tối đa 70% chi phí cho các hoạt động đào tạo chuyên gia, nâng cao năng lực tổ chức tư vấn và phát triển đội ngũ nhân lực kỹ thuật trong ngành. Đối tượng thụ hưởng gồm cả sinh viên xuất sắc, giảng viên, nghiên cứu viên, chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề đang làm việc trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

Nghị định mới cũng mở rộng hỗ trợ đối với các yếu tố gián tiếp nhưng mang tính quyết định, như môi trường đầu tư, thủ tục pháp lý, tiêu chuẩn kỹ thuật và phát triển thị trường. Các doanh nghiệp đầu tư vào khu hoặc cụm công nghiệp hỗ trợ sẽ được hỗ trợ thực hiện các quy định bảo vệ môi trường.

Về mặt pháp lý, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên sẽ được tiếp cận các chương trình hỗ trợ pháp lý hiện hành, đồng thời được miễn, giảm một số chi phí hành chính theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Cơ chế hỗ trợ kiểm định chất lượng cũng được đưa ra, các doanh nghiệp sẽ được tài trợ một phần chi phí để thực hiện thử nghiệm, giám định, chứng nhận tiêu chuẩn, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, đăng ký bản quyền thương hiệu, mã vạch và các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ.

Ở khía cạnh thị trường, nghị định cho phép các doanh nghiệp được hỗ trợ tối đa 70% chi phí khi tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ – triển lãm trong và ngoài nước, cũng như các hoạt động liên kết với tập đoàn đa quốc gia để mở rộng chuỗi cung ứng.

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước – mức cao nhất kể từ năm 2020 đến nay. Riêng ngành chế biến – chế tạo tăng 11,1%, góp 9,1 điểm % vào mức tăng chung.

Việt Nam hiện có khoảng 2.000 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Bắc Ninh, Đồng Nai… Tuy nhiên, phần lớn vẫn là doanh nghiệp quy mô nhỏ, năng lực tài chính và công nghệ còn hạn chế, chủ yếu làm gia công cấp thấp, tỷ lệ nội địa hóa chưa cao.

Nghị định 205/2025/NĐ-CP không chỉ là chính sách ngắn hạn nhằm gỡ khó về vốn và công nghệ, mà còn là bước đi dài hạn để xây dựng nền tảng tự chủ về sản xuất – một trong những yếu tố then chốt để đảm bảo tăng trưởng bền vững, nâng cao vị thế của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt.

Khi được triển khai bài bản và minh bạch, Nghị định 205/2025/NĐ-CP sẽ đóng vai trò ‘đòn bẩy’ thúc đẩy cả hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả và hội nhập. Đây là điều kiện tiên quyết để Việt Nam tránh lệ thuộc vào nhập khẩu linh kiện, nguyên vật liệu; đồng thời tăng khả năng tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực, tận dụng làn sóng dịch chuyển đầu tư quốc tế.

]]>
Việt Nam cần lộ trình cụ thể để phát triển trí tuệ nhân tạo https://trithucdoanhnhan.com/viet-nam-can-lo-trinh-cu-the-de-phat-trien-tri-tue-nhan-tao/ Fri, 25 Jul 2025 22:01:32 +0000 https://trithucdoanhnhan.com/viet-nam-can-lo-trinh-cu-the-de-phat-trien-tri-tue-nhan-tao/

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang nổi lên như một điểm sáng trong lĩnh vực công nghệ, với tiềm năng phát triển vượt xa tưởng tượng. Tuy nhiên, để đạt được sự phát triển bền vững, cần có một lộ trình cụ thể theo từng giai đoạn, ưu tiên giải quyết các vấn đề cốt lõi trước khi bước vào giai đoạn tăng tốc.

Chính phủ Việt Nam đã và đang tích cực thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để tạo động lực tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Mới đây, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Công nghiệp Công nghệ số, tạo ra một sân chơi minh bạch và hoàn thiện khung pháp lý cho ngành công nghiệp mới nổi này.

Ông Cheng Xueli chia sẻ tại sự kiện ngày 18/07.
Ông Cheng Xueli chia sẻ tại sự kiện ngày 18/07.

Các chuyên gia đánh giá cao các động thái quyết liệt của Chính phủ Việt Nam trong việc thúc đẩy công nghệ sáng tạo và ứng dụng AI vào mọi lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên, trên hành trình đưa AI vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, vẫn còn những thách thức cần được giải quyết.

Theo TS. Trần Quý, Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế Số Việt Nam (VIDE), có 4 thách thức chính kìm hãm sự phát triển của AI tại Việt Nam, bao gồm: ‘cơn khát’ dữ liệu chất lượng cao, khủng hoảng nguồn nhân lực, chi phí đầu tư và sự mơ hồ về chiến lược, cũng như rào cản pháp lý, đạo đức và an ninh.

Để giải quyết những thách thức này, TS. Quý đề xuất một lộ trình phát triển AI với mục tiêu ‘xây nền móng trước, tăng tốc sau’, bao gồm hai giai đoạn. Trong giai đoạn hiện tại, cần tập trung giải quyết dứt điểm 4 nút thắt trên, ưu tiên hàng đầu là giải quyết khủng hoảng nhân lực và dữ liệu.

TS. Trần Quý, Viện trưởng VIDE.
TS. Trần Quý, Viện trưởng VIDE.

Về nhân lực, cần một chiến lược ‘ba chân kiềng’ đồng bộ, bao gồm cải cách đào tạo trong các trường đại học, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp lớn và mở các chương trình đào tạo quy mô lớn. Về dữ liệu, cần khởi động chương trình quốc gia về số hóa và chuẩn hóa dữ liệu trong các lĩnh vực công quan trọng.

Đến giai đoạn 2 (2026-2030), mới bắt đầu tăng tốc và chuyên môn hóa, tập trung vào phát triển các ứng dụng AI đẳng cấp thế giới trong các lĩnh vực có lợi thế. Đồng thời, cần có chính sách hỗ trợ có mục tiêu cho các doanh nghiệp AI tiềm năng nhất, giúp họ trở thành các thương hiệu uy tín trong khu vực.

Về phía doanh nghiệp, ông Cheng Xueli, Founder Quỹ đầu tư Hanfu và Công ty Công nghệ Zhiji, khuyến nghị các doanh nghiệp Việt Nam cần không ngừng học hỏi, duy trì tinh thần đổi mới sáng tạo và đặc biệt là mở rộng tầm nhìn ra thị trường quốc tế.

]]>